Wednesday, April 17, 2024

GẶP GỠ (NHẤT PHƯƠNG)

 


Gặp Gỡ

 

*Thương kính dâng Mẹ hiền, và những

Từ Mẫu đang cùng các con sum họp.

 

Mẹ bước đến cho đời con thêm ấm

Vòng tay mềm, ôm ấp biển chờ mong

Thời gian trôi, lệ nóng chảy thành sông

Làn tóc mịn phủ màu trăng ly biệt.

 

Mẹ bước đến, ánh mắt ngời âu yếm

Gặp lại nhau nay đã quá nửa đời

Con nên người, công mẹ tựa trùng khơi

Ơn dưỡng dục, sáng ngời gương từ mẫu.

 

Mẹ bước đến, cõi lòng nào ai thấu

Mối u hoài chôn dấu lại quê hương

Nụ cười hiền phảng phất nét thê lương

Tâm trạng mẹ, niềm thương và nỗi nhớ.

 

Mẹ bước đến, khung trời nhiều bỡ ngỡ

Bình minh lên im ắng tiếng rao quà

Có còn ai bày tỏ... chuyện lìa xa!

Chung quanh mẹ dường như là ảo ảnh.

 

Mẹ bước đến, đôi vai gầy buông thõng

Hành trang nằm trong túi áo bà ba

Mẹ trao con lời nhắn nhủ thiết tha

Này non nước, này quê cha thống khổ.

 

Mẹ bước đến, cảnh phồn hoa tạm bợ

Phố phường đông xuôi ngược mấy người quen?

Chốn phù du rực rỡ những bon chen

Đời lữ thứ lắm muộn phiền đen bạc.

 

Mẹ bước đến, cung buồn đan cánh hạc

Suối tương tư khao khát nỗi hoài hương

Mẹ âm thầm bầu bạn với sầu thương

Giá Hạnh Phúc? Chỉ đêm trường mới biết.

 

Mẹ đã đến để thỏa lòng mơ ước

Rồi đợi ngày quay bước lại Việt-Nam.

 

Nhất-Phương

XIN LÀM HẠT CỎ NẨY MẦM...(PETER TRẦN)

 





NGƯỜI VỢ TÙ (NGUYỄN VẠN THẮNG)

 


NGƯỜI VỢ TÙ
(Kính tặng những người vợ có chồng bị tù CS)


Vì đã trót sinh ra làm vợ lính
Nên mang nhiều bất hạnh lúc giặc vô
Chúng vào Nam tàn phá, đào quật mồ
Bao nghiệt ngã vì thương chồng phấn đấu

Tội thương thay, vợ tù không nương náu
Phải bơ vơ, tìm lẽ sống riêng mình
Nuôi đàn con cực khổ chịu hy sinh
Dù chỉ biết tương lai mù mịt tối

Ai thấu hiểu tháng ngày dài lặn lội ?
Đến trại tù thăm chồng giọt lệ rơi
Nhìn xác thân tàn tạ tuổi đôi mươi
Mắt như đã ngậm ngùi theo tháng đợi

Chị đã phải từng đêm dài réo gọi
Mong chồng về đoàn tụ với đàn con
Bọn giặc nô loài khát máu không hồn
Chúng chỉ biết đọa đày không nuối tiếc

Có những lúc một mình buồn da diết
Thương khóc chồng, tội nghiêp đàn con thơ
Tiếng cầu xin, van khấn nguyện hàng giờ
Nhưng Thượng Đế như vô tình không biết

Người vợ tù miền Nam bao kể xiết
Bút mực nào tả hết nỗi thương đau
Làm sao ngăn giòng lệ máu tuôn trào
Nhìn thân xác héo mòn trong vô vọng

Làm sao kể hết ra chuyện xúc động
Đếm nỗi buồn trông từng phút chờ mong
Bao đắng cay tủi nhục quyết chờ chồng
Bao chôn kín niềm đau thương uất nghẹn

Kỷ niệm xưa còn đâu lần hò hẹn
Tà áo dài tha thướt chiều công viên
Anh hiên ngang dạo bước bên vợ hiền
Con phố nhỏ êm đềm vui anh nhỉ !

Nguyễn Vạn Thắng


MẤY ĐOẠN ĐƯỜNG ĐỜI (NK)

 



Mấy Đoạn Đường Đời 

                                                         N.K.


Bài viết sau đây là tự truyện về gia đình người chỉ huy phó Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch tại Phan Thiết sau biến cố 30 Tháng Tư. Tác giả bài viết là một cô giáo, người vợ tù, một mình nuôi con. Sau nhiều năm cơ cực, gia đình định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. và đây là bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà.


******* 

Bây giờ ở Mỹ đang mùa Xuân. Đi đâu tôi cũng gặp hoa muôn màu muôn sắc rực rỡ, chim chóc hót líu lo, gió mát nhẹ nhàng thổi. 
Hôm nay tháng Tư lại về. Tôi thấy lòng mình chùng xuống khi nhớ lại những ngày sau 30-4-75. Hồi đó, khi còn ở Việt Nam, tôi đã khóc biết bao mỗi khi tháng Tư về. Bây giờ hình như không còn nước mắt để khóc nữa, nhưng vết thương lòng qua bao nhiêu năm tháng vẫn chưa lành.
 
Tôi nhớ Sư Bà Huyền Không ở Phan Thiết đã từng nói với tôi: “Bao nhiêu đau khổ vây quyện đời con, nhưng dù hoàn cảnh nào, con vẫn là một người vợ hiền, một người mẹ tốt nghe con”.
Đời tôi, nhờ niềm tin tôn giáo, nhờ Ơn Trên che chở mà tồn tại đến ngày hôm nay. Thuở nhỏ tôi là con bé yếu đuối, đau ốm liên miên, mấy lần suýt chết đuối trên sông Hương, mấy ai ngờ có ngày oằn vai “gánh” cả một gia đình sáu người, rồi cuối cùng vượt đại dương đến Mỹ để sống những ngày cuối đời nơi đất khách quê người nhưng lại đậm tình đậm nghĩa.


1. Những ngày trước 30-4-75 
Lúc đó, gia đình chúng tôi ở Phan Thiết, trong khu trại gia binh. Tình hình chiến tranh sôi sục, nhất là những ngày đầu Tháng Tư. Mỗi ngày tôi hồi hộp theo dõi tin tức thời sự qua đài BBC, hãi hùng với tiếng súng ầm ầm từ những cuộc giao tranh. Ông Chỉ Huy Trưởng Quân Y Viện đã lặng lẽ bỏ đi, để lại cho ông xã tôi, Chỉ Huy Phó, một mình vừa cứu thương, vừa điều khiển Quân Y Viện. Tôi hoang mang, lo sợ. 
Để rảnh tay lo việc công, anh ấy cho năm mẹ con tôi di chuyển vào Sài Gòn trước ở tạm nhà người bà con. Tôi hồi hộp trông tin anh từng ngày, từng giờ mà không biết hỏi ai, chỉ biết cầu nguyện Phật Trời che chở. Tôi cứ băn khoăn lo lắng không biết rồi vợ chồng còn gặp nhau không. Thôi thì phó mặt cho số phận đẩy đưa.
Ông xã tôi là người lúc nào cũng hết lòng về công vụ. Hồi mới ra trường, anh đổi ra làm việc ở Quảng Trị. Gặp trận Hạ Lào, anh ấy mỗi ngày phải thường trực giải phẫu 24/24 để cứu thương bệnh binh. Lúc đổi về Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch, Phan Thiết, anh vẫn một lòng tận tụy với nhiệm vụ. Anh không mở phòng mạch tư kiếm thêm tiền, không lươn lẹo ăn bớt thuốc men trong Quân Y Viện. Do đó anh rất được quân nhân các cấp trong QYV thương yêu quý mến.
Sau khi tôi và các con đi rồi, biết tỉnh Bình Thuận sắp thất thủ, anh ấy lo di tản các thương binh còn nằm ở Quân Y Viện vào Vũng Tàu. Vì mặt sau của Quân Y Viện là biển, và lúc bấy giờ các tàu Hải Quân VNCH còn khá nhiều, nên việc di tản được suôn sẻ. Đến lúc tỉnh Bình Thuận bị lọt vào tay Cộng quân (19-4-75) thì ông xã tôi mới theo tàu Hải Quân vào Sài Gòn.
Chúng tôi gặp lại nhau. Chỗ ở trọ không tiện chút nào. Người bà con có nuôi hai con chó. Đêm nào chúng cũng leo lên chỗ chúng tôi nằm (vì giành giường của tụi nó) gây tiếng động ầm ĩ, chẳng ai ngủ được. Chúng tôi lại đi xin ở nhờ một người bà con khác. Nhà này có ba tầng. Lúc dọn đến chúng tôi được cho ở tầng ba, còn hai tầng kia Mỹ mướn. Ngày hôm sau, chúng tôi được biết có một tàu Mỹ sắp đi Thái Lan. Nếu chúng tôi lanh trí, ngỏ lời xin “quá giang” thì chắc được chấp thuận rồi. Một phần vì lòng yêu quê hương, không muốn rời bỏ quê cha đất tổ, một phần vì chưa sống với Việt Cộng và cũng chủ quan anh ấy thuộc ngành y đâu có tội lỗi gì nên ở lại. Đời mấy ai học được chữ ngờ! Cũng vì không biết chớp lấy thời cơ đó mà cuộc đời xô đẩy gia đình tôi vào hoàn cảnh oan nghiệt. 


2. Thời làm vợ tù
Sau lệnh đầu hàng của vị Tổng Thống ba ngày, chúng tôi trở lại Phan Thiết và rồi tôi trở thành vợ tù. 
Tôi bị rơi vào hoàn cảnh một thân một mình nuôi chồng và bốn con còn nhỏ dại, chưa được chuẩn bị để thích ứng với tình huống này! Thời trước 1975, cả hai vợ chồng sống bằng đồng lương ít ỏi của nhà nước. Lương nhà giáo quá khiêm tốn, ai cũng biết rồi. Còn anh ấy là một Bác Sĩ Quân Y thanh liêm, tận tâm với trách nhiệm, không mở phòng mạch tư kiếm thêm tiền mà dành hết thời giờ cho công vụ. Do đó, tôi đã phải tiện tặn hết mức để không mang công mắc nợ. Khi anh đi tù tôi không còn chút tiền dư bạc để. Do đó tôi rơi vào hoàn cảnh đôi vai gầy guộc, ốm yếu của tôi gánh hai gánh nặng thân tình, ngang ngửa nhau, không thể bỏ gánh nào được cả. 
Từ khi Việt Cộng chiếm miền Nam, gia đình chúng tôi không còn được ở trong Khu Gia Binh Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch nữa. Tôi phải xin tá túc nhà ông TTP, cũng là Sĩ Quan của Quân Y Viện. Khi ông xã tôi vào tù, tôi thấy không thể ở nhà người ta mãi nên tìm cách ra ở riêng. Dốc hết tư trang ngày cưới, tôi mua một miếng đất trên động cát thuộc phường Phú Thủy, Phan Thiết. Nơi đó có sẵn một căn nhà lá lợp tôn, để ngoài giờ đi dạy ở trường cấp 2B (tôi được lưu dụng với đồng lương đủ cho chục ngày chợ!), tôi “lao động sản xuất” thêm để tự cứu mình và cứu gia đình.
Các con tôi bị xô vào hoàn cảnh nghèo khó. Nhờ vậy chúng trở nên khôn trước tuổi. Con chị mới 9 tuổi đã biết đi chợ nấu ăn, giặt đồ, dỗ em. Khi nào em khóc (thằng út mới 3 tuổi) thì con chị ra chặt mía, róc, chẻ nhỏ rồi đút cho em ăn. Thằng em trai kế nó, mới 8 tuổi cũng đã biết cùng với mẹ đi xin phân heo, cuốc đất, tưới nước để trồng khoai lang, khoai mì, biết xắt lát củ khoai phơi khô để dành thăm nuôi cha nó, biết cất lại một phần khoai để ăn độn với gạo cho đỡ đói, vì gạo tiêu chuẩn có bao giờ ăn đủ cho 5 người! Hình ảnh đáng thương nhất là con bé H. L. 5 tuổi ngồi đưa võng cho thằng em 3 tuổi, vừa đưa vừa hát à… ơi nghe đau lòng đứt ruột! Khi trái chùm ruột chín, con bé tự ý giã muối ớt, đựng chùm ruột trong chiếc rỗ nhỏ, rồi đem ra đầu hẻm nhà mình mời các bạn nhỏ trong xóm mua.
Tội nghiệp các con tôi! Các con tôi cũng đói lắm, cũng thèm nhâm nhi chùm ruột với muối ớt lắm, vậy mà… Có người mẹ nào tim không quặn thắt, ruột không đứt từng khúc từng đoạn trước những tình cảnh này! 
Cuộc sống của 5 mẹ con tôi trong căn nhà lá ấy, không sao kể xiết nỗi thống khổ, vất vả và đói khát. Tôi nhớ một câu văn của Thạch Lam: “Đói như cào ruột, đói như chưa từng thấy bao giờ”. Bây giờ thì tôi đã có kinh nghiệm xương máu cái nghèo, cái đói đây! Nghèo đến nỗi khi đổi tiền, tôi không đủ tiền để đổi nữa. Học trò hàng xóm tốt bụng đưa tiền nhờ đổi giùm, sau đó tặng cho chút đỉnh gọi là “để cô mua bánh cho mấy em.” 
Ông xã vào tù rồi, phải mất mấy tháng sau, tôi mới được giấy cho đi thăm nuôi. Đây là lần thăm nuôi đầu tiên. Thời gian thật ngắn, vui thì ít mà xót xa lại nhiều. Tôi cảm xúc viết vài dòng thơ nói lên nỗi bi ai của tôi sau khi về nhà: 
Khóc hết nước mắt đêm thâu
Sáng nay tươi tỉnh em vào thăm anh.
Chân em thoăn thoắt, nhanh nhanh,
Quản chi xách nặng, thênh thênh đường dài.
Ra đi định nói bao lời,
Đến khi gặp mặt hỡi ơi nghẹn rồi!
Bàn ngăn hai đứa ai ngồi
Lù lù một đống, muốn sôi gan mình.
Nói qua quýt, chuyện loanh quanh….
“Mấy con sức khỏe?” Băn khoăn hai người…
Còi huýt: “Năm phút rồi thôi!”
Bây giờ đôi ngả, đôi nơi chia lìa!
Có dạo đi thăm nuôi ông xã, tôi gởi cho anh ấy mấy đồng để mua đồ ăn thêm. Nhiều tháng sau, lúc ra thăm trở lại, hỏi anh tiền hôm đó có mua được gì không. Anh nói vẫn còn nguyên. Tội nghiệp cho cả gia đình tôi! Ở ngoài vợ con nhịn đói để nuôi tù, ở trong nhịn đói vì không nỡ “nuốt cái đói khát” của vợ con! Còn nỗi chua xót, đau đớn nào cho tôi hơn nữa!!! 
Ở tù được hai năm rưỡi thì anh ấy được thả về. Thôi thì hết làm thợ mộc, thợ nề, lại đi bốc, đi vác… khi áo blouse xưa không được dùng đến nữa. Được hơn ba tháng thì Ủy Ban Nhân Dân Phường gọi anh ấy đến để “động viên” nhắc nhở “đăng ký” đi kinh tế mới”. Anh ấy không chịu, lấy lý do: trong trại cải tạo, anh đã được học tập về đường lối, chính sách của nhà nước là sẽ lưu dụng những thành phần chuyên môn, và anh đang chờ đợi. Không ngờ đó lại là cái cớ để họ bắt anh vào tù lần thứ hai, bị ghép vào tội chống nhà nước. Lần sau này anh bị đưa vào trại biệt giam. Mấy tháng sau họ mới cho thăm nuôi. Khi gặp mặt, tôi thấy anh xanh xao, u buồn. Anh dặn dò: “Lần sau nhớ mua cho anh cây lược dày để chải chí và thuốc Dep để trị ghẻ.” Điều kỳ cục là trại này không cho người tù nhận những món như bánh tráng, gạo…, chỉ cho nhận những thứ ăn chơi như: kẹo, bánh, đường, đậu… Lỡ mang đi, bị buộc mang về. Ra về lòng tôi vừa xót xa… 
Lão trưởng khóm nơi tôi ở nói với tôi: “Chồng cô sẽ ở tù suốt đời vì tội phản động”. Tôi nghe mà bủn rủn tay chân. Thôi chết rồi, biết làm sao đây! Tiếp theo phường lại “động viên” tôi, biểu tôi đi kinh tế mới. Tôi đáp: “Tôi yếu đuối, 4 con còn quá nhỏ, tôi làm được gì nơi đó?” Cũng may, nếu nghe lời họ, bây giờ mấy mẹ con tôi biết còn sống không?
Suốt mấy năm gian khổ, khi không thể cầm cự nổi nữa (năm 1980) tôi xin thôi việc, bỏ Phan Thiết về Long Xuyên để ở gần cha mẹ tôi (lúc bấy giờ ông bà đang sống cùng gia đình người anh của tôi). Ông xã tôi lúc đó còn trong tù, tôi phó mặc cho Trời, vì tôi không còn sức lực, không còn khả năng đi thăm nuôi nữa. 
Trên danh nghĩa, tôi về Long Xuyên để nhờ anh tôi giúp đỡ. Chưa đầy một tháng thì anh ấy đưa toàn gia đình đi vượt biên hết (sau này tôi mới biết nhiều lần ông ấy đã đi vượt biên không thoát, nên gợi ý tôi về hòng che mắt công an, phường khóm.) Cha mẹ tôi lúc đó đã già. Anh tôi đi, ông bà mất chỗ dựa, lại thêm địa phương làm khó dễ vì nhà có người vượt biên nên bị khủng hoảng tinh thần, lâu dần sinh bệnh, nhất là mẹ tôi, bà đau ốm liên miên. Cuộc sống ở đây tuy gần cha mẹ tôi, nhưng lúc nào lòng tôi cũng thấp thỏm lo âu, cứ nơm nớp sợ không biết ngày nào người ta sẽ đuổi mình ra khỏi nhà, chừng đó biết đi đâu? 
Hơn một năm sau, 1981, thình lình ông xã tôi được thả về. Từ đây, anh đi chích dạo, bán thuốc lá lẻ, bán vé số, làm đủ mọi nghề cho đến ngày nộp đơn đi H.O. 


3. Từ giấy ra trại tới cuộc phỏng vấn 
Vì bị tù hai lần, ông xã tôi như một con chim bị đạn, cứ lo sợ không biết còn bị bắt lại nữa không. Vì thế, lúc nghe người ta kể về việc nộp hồ sơ đi Hoa Kỳ theo diện H.O., ông xã tôi vô cùng e ngại, lo sợ bị gạt, phải chờ đến khi có người bạn đi trước gởi thư về khuyên nhủ ông mới mạnh dạn làm thủ tục để ra đi. 
Giấy ra trại là một vấn đề khiến gia đình tôi không yên tâm chút nào, vì trên giấy ghi rành rành “tội phản động chống chính quyền”! Chúng tôi hỏi thăm nhiều người, không ai có tờ giấy ra trại ghi như thế cả. Chúng tôi cũng được biết chính phủ Mỹ chỉ cho những thành phần quân, cán, chính chế độ cũ ở tù 3 năm trở lên mới được đi định cư ở Mỹ, còn những người chống chính quyền thì không được. Chúng tôi lại hỏi ý kiến bạn bè và được khuyên làm sẵn một tờ tường trình lý do bị tù lần hai. Vậy là có tờ report chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn.
Rồi ngày gia đình tôi vào gặp phái đoàn Mỹ cũng tới. Tôi nhận thấy những gia đình H.O. được phỏng vấn trước, hầu như đều được giải quyết mau lẹ, không như gia đình tôi. Những đêm trước khi phỏng vấn, tôi đã cầu nguyện cho mọi việc suôn sẻ. Vậy mà, khi gặp phái đoàn chúng tôi vẫn run, nhất là khi bà Mỹ nêu câu hỏi: “Tại sao anh là Bác Sĩ mà phải đi cải tạo cả 5 năm rưỡi?”. Ông xã tôi khựng lại. Tim tôi đập thình thịch! Lát sau, bình tĩnh lại, tôi nhắc: “Anh, tờ report.” chừng đó anh mới sực nhớ ra và đáp: “Xin bà đọc tờ report.” Sau khi đọc xong, họ OK liền. Vậy là thoát nạn. Lúc ấy cả nhà tôi như vừa chết đi được sống lại. 


4. Thời qua Mỹ
Gia đình tôi đến Hoa Kỳ năm 1992. Riêng tôi, qua năm sau mới được đi vì phải ở lại điều trị bệnh. Lúc mới qua, chồng và các con tôi đều nỗ lực làm việc và học hành. Con gái, con trai đều đổ ra shop may: Con trai thì ủi đồ và cắt chỉ, con gái lãnh đồ may. Sau một thời gian, con tôi vào Đại Học, nay thì đã tốt nghiệp và đi làm. Ông xã tôi, lúc mới qua, tự thấy lớn tuổi rồi, nếu học lại để lấy bằng thì ai thèm mướn nên cũng đành ra shop may lãnh đóng khuy nút một thời gian, sau đó vô làm ở một hãng Mỹ chuyên sản xuất nữ trang cho đến ngày nghỉ hưu. 
Riêng tôi, thời gian vất vả trong những tháng năm cũ đã vắt kiệt sức lực của tôi. Tôi chỉ có thể làm những việc lặt vặt trong nhà, chứ không bươn chải nổi như người khác được. 
Đến Hoa Kỳ, không ngờ chúng tôi có cơ duyên gặp lại những người bạn Việt Nam thân quen gần nửa thế kỷ, thật là vui! Có hai ông Bác Sĩ người Mỹ là Colman và Denatale cùng làm việc với ông xã tôi hồi ở Quảng Trị, trước mùa hè đỏ lửa, cũng tìm tới tận nhà thăm chúng tôi. Ai dám nói người Mỹ thực dụng, thiếu nghĩa tình? Vài tháng trước đây, cô con gái của ông Bác Sĩ Krainick từ Ohio cũng gọi phone qua hỏi thăm và nhắc lại những kỷ niệm xưa của cha mình với ông xã tôi (Bác Sĩ Krainick ngày xưa dạy ở Đại Học Y Khoa Huế, là thầy của ông xã tôi, bị Việt Cộng sát hại năm Mậu Thân). Thật là đậm đà tình người! 
Đời tôi, những lúc vui buồn đều có bạn bè chia sẻ. Hôm tôi gởi bài viết của H.L., con gái tôi, kể chuyện thời đi bán vé số ở Long Xuyên bị người ta nhiếc mắng, chị LT người bạn thân ở Phan Thiết, từ Michigan gọi qua nói trong nước mắt: “Tội quá! Sao hồi đó em thiếu thốn, khổ cực thê thảm như vậy mà không chịu nói ra. Em làm chị đang ân hận là đã không giúp em!”. Tôi đã câm lặng bao nhiêu năm trời để giữ gìn cái danh dự gia đình của tôi: “Đói cho sạch, rách cho thơm” “Hãy đứng trên đôi chân mình và ngững cao đầu tiến bước.”
Nhìn lại những chặng đường đã qua, tôi tự thấy mình đã tận lực trong vai trò người mẹ, người vợ của một quân nhân VNCH trước và sau 30-4-75. Đời tôi sống đơn giản, không đua đòi se sua, không xúi giục chồng làm giàu bằng con đường tắt cong queo. Đó là nguyên nhân tôi nhận lãnh những cay đắng của cuộc đời, và những tủi nhục của tình đời. Tuy nhiên, hạnh phúc nào mà không trả giá bằng đau khổ? Nếm đủ cay, chua, mặn, đắng… chỉ làm cho ta cuối cùng thấy hạnh phúc thêm ngọt ngào hơn. 
Cám ơn cuộc đời đã cho tôi và gia đình tôi nếm trải qua đủ mùi vị. Cám ơn nước Mỹ đã đưa gia đình tôi qua đây để được sống những ngày an lành, hạnh phúc.
 
N. K.

 


NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 (TIỂU TỬ)

 

 


NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975

TIỂU TỬ


Năm nay tôi 80 tuổi. Vợ tôi thường nói với mấy con: " Ông bà mình nói người già hay sanh tật, đúng quá ! Bây coi: ba bây bây giờ sáng nào uống cà phê xong cũng lại đứng trước tấm lịch tháng treo ở phòng khách, nhìn trầm ngâm một chút rồi lấy bút gạch tréo ô vuông đề ngày hôm qua! Chi vậy hổng biết? Hỏi ổng thì ổng nói gạch để nhớ rằng đến ngày nầy tháng nầy mình vẫn còn trôi sông lạc chợ! Trời đất ! Định cư ở Pháp từ hơn ba mươi năm chớ phải mới đây đâu mà đi gạch lịch từng ngày! Ổng còn nói gạch để coi chừng nào mình mới thôi gạch để về lại Việt Nam … "

 

Câu nói của tôi là sự thật nhưng vì vợ tôi không hiểu nên cho là tôi già sanh tật! Làm sao giải thích được mỗi lần tôi gạch tréo một ngày như vậy tôi có cảm tưởng như là tôi vừa nhích lại gần quê hương một chút – một chút thôi – đủ để nuôi hy vọng thấy một ngày nào đó mình vẫn còn sống mà trở về…

 

Sáng nay, cũng giống như mọi ngày, tôi cầm bút gạch tréo ô vuông ngày hôm qua. Ô vuông ngày hôm nay đập vào mắt tôi làm tôi giật mình: ngày nầy, năm 1975 ! Tôi bỗng nhớ ra, nhớ rõ, những gì đã xảy ra ngày đó, nhớ như in. Rồi sợ “cái ngày đó” nó vuột khỏi ký ức vốn đã quá hao mòn của tuổi già, tôi vội vã lấy giấy bút ghi lại…

 

* * *

 

…Hồi thời trước 75, tôi làm việc cho một hãng dầu ở Việt Nam, phụ trách nhập cảng xăng dầu từ Singapore vào kho dầu Nhà Bè để cung ứng cho thị trường dân sự và quân sự miền nam Việt Nam. Vì trong xứ có giặc nên thị trường quân sự chiếm 60%, trong đó xăng máy bay dẫn đầu. Các bạn tôi trong quân đội giải thích cho tôi biết rằng ở chiến trường miền nam sự yểm trợ của không lực là quan trọng nhứt. Do đó, tôi luôn luôn theo dõi sát tình hình dự trữ xăng máy bay ở các kho dầu miền nam, từ kho Nại Hiên Đà Nẵng dẫn xuống kho Cần Thơ thông qua kho lớn ở Nhà Bè…

 

Vào cuối tháng 3 năm 1975, sau lịnh triệt thoái cao nguyên, tình hình quân sự trở nên ồ ạt. Sợ trở tay không kịp, tôi còm-măng Singapore một tàu xăng máy bay. Hay tin nầy, hãng bảo hiểm có hợp đồng với hãng dầu tôi làm việc đánh điện phản đối, không cho tàu dầu qua Việt Nam viện cớ tình hình bất ổn. Đánh điện qua, đánh điện lại, cù cưa cả tuần họ mới bằng lòng cho tàu dầu qua, với điều kiện phải có hộ tống của Navy Mỹ họ mới cho tàu vào sông Sàigòn để cập kho Nhà Bè!

 

Tôi báo cáo với ban giám đốc vì lúc đó ở kho lớn Nhà Bè trữ lượng xăng máy bay chỉ còn đủ có bày ngày tác chiến của không quân. Ban giám đốc chấp thuận điều kiện của hãng bảo hiểm. Tôi vội vã gọi điện thoại lại cơ quan yểm trợ Mỹ để xin họp khẩn. Ông trưởng sở trả lời: " Tôi sẽ đến ngay văn phòng ông. Cho tôi mười phút ! ". Tôi quen ông nầy – tên W, thường được gọi là " Xếp " – nhờ hay đi họp chung. Ông ta dễ thương nhã nhặn, biết chút đỉnh tiếng Pháp nên lần nào gặp tôi cũng nói :” Bonjour! çà va ?” ( Chào ông ! Mạnh hả ?)

 

Xếp W đến văn phòng tôi với hai người phụ tá. Tôi đã làm sẵn hồ sơ nên sau khi mời ngồi, tôi trao ngay cho họ để họ dễ theo dõi những gì tôi sẽ trình bày. Mười phút sau, tôi kết luận xin can thiệp gấp để tàu dầu xăng máy bay của hãng tôi được hộ tống, không quên nhắc lại điểm chánh yếu là trữ lượng xăng máy bay chỉ còn đủ để chiến đấu trong vòng có bảy bữa !

 

Nghe xong, Xếp W xin phép bước ra ngoài gọi radio về trung ương. Một lúc sau, ông trở vào, nét mặt và giọng nói vẫn tự nhiên như chẳng có gì quan trọng hết: "Rất tiếc ! Chúng tôi không giúp được ! Thôi! Chúng tôi về! ". Tôi đang nghe nghẹn ngang ở cổ thì ông W vỗ vai tôi nói nhỏ bằng tiếng Pháp: "Allez vous en ! " (Ông hãy đi, đi !) Ra đến cửa phòng, ổng ngừng lại nhìn tôi, gật nhẹ đầu một cái như để chào nhưng tôi nghĩ là ổng muốn nhắc lại câu nói cuối cùng " Allez vous en !  (Ông hãy đi, đi!) …

 

Tôi ngồi bất động, nghe tức tràn lên cổ vì thấy mình bất lực quá và cũng nghe thương vô cùng cái quê hương nhỏ bé của mình, nhược tiểu đến mức độ mà khi cần nắm tay để kéo đi theo thì " họ " dán… đầy đường cái nhãn ” hai bàn tay nắm lấy nhau” để chứng tỏ sự thật tình "khắn khít", rồi khi không còn cần nữa thì cứ tự nhiên buông bỏ không ngượng tay giấu mặt, vì biết mười mươi rằng " thằng nhược tiểu đó không làm gì được mình "!

 

Tôi ráng kềm xúc động, bước qua phòng họp của ban giám đốc, chỉ nói được có mấy tiếng: "Chánh quyền Mỹ từ chối !". Sau đó, tôi đánh điện qua Singapore, cũng chỉ bằng một câu: "Không có hộ tống ". Họ trả lời ngay: " OK ! Good Luck!" ( Nhận được ! Chúc may mắn ! ) Hai chữ cuối cùng, trong hoàn cảnh nầy và vào thời điểm nầy, nghe sao thật đầy chua xót !

 

Thấy mới có ba giờ chiều, nhưng không còn lòng dạ đâu để ngồi lại làm việc nên tôi lái xe về nhà. Tôi lái như cái máy, cứ theo lộ trình quen thuộc mà đi. Về đến trước nhà, tôi bỏ xe ngoài ngỏ, đi bộ vô. Vợ tôi chạy ra, ngạc nhiên: "Sao về vậy anh? ". Tôi không nói được gì hết, chỉ gục đầu vào vai vợ tôi rồi bật khóc . Vợ tôi chưa biết những gì đã xãy ra nhưng chắc nàng đoán được rằng tôi phải đau khổ lắm mới phát khóc như vậy. Cho nên nàng vừa đưa tay vuốt vuốt lưng tôi vừa nói, giọng đầy cảm xúc: "Ờ…Khóc đi anh ! Khóc đi ! "

Ngày đó, tháng tư năm 1975…Đúng là ngày nầy !

 

Tiểu Tử


MÓN NỢ ÂN TÌNH (NGÂN BÌNH)

 

MÓN NỢ ÂN TÌNH

Ngân Bình.



Tôi sang Mỹ cùng với Ba Dượng theo diện H.O - nhờ tờ khai sinh giả tôi có được qua những đồng tiền đút lót mà tôi trở thành con ruột của Ba. Cha mẹ tôi và một đứa em trai còn ở lại Việt Nam. Nhiều người rất ngạc nhiên, không hiểu vì sao mỗi khi nhắc đến gia đình ruột thịt tôi có phần lạnh nhạt trong khi tôi lại rất thương yêu và chăm sóc Ba Dượng. Thật sự, tôi thương Ba Dượng hơn cha ruột của tôi rất nhiều. Tôi không biết điều đó đúng hay sai nhưng tình cảm luôn xuất phát từ trái tim, không thể gượng ép và cũng không thể theo một khuôn mẫu đã định sẵn. Duy nhất một điều tôi có thể hiểu được là cha tôi chưa một ngày bồng ẵm tôi nhưng Ba Dượng đã nuôi nấng tôi từ thuở ấu thơ.

Khi mẹ mang thai tôi được sáu tháng thì cha đã bỏ mẹ con tôi để vào rừng, theo “Quân giải phóng”. Mẹ ở lại, một mình một thân yếu đuối với cuộc sống vất vả nghèo nàn, vừa nuôi mẹ chồng, vừa nuôi con dại. Ngay lúc ấy, Ba Dượng tôi xuất hiện. Ông là một Sĩ quan trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ Thành phố ông thuyên chuyển về nơi gia đình tôi đang sinh sống. Tôi không nhớ rõ những gì đã xảy ra, chỉ biết rằng đến khi bốn tuổi tôi mới có được một người mà tôi gọi bằng Ba. Ba là một người hiền lành, chân thật và rất vui tính, cởi mở. Ba chăm sóc bà nội như mẹ ruột, vì thế bà nội cũng rất thương Ba. Ngược lại, mẹ tôi không yêu Ba. Mẹ tiếp nhận Ba - một cuộc hôn nhân không giá thú - chỉ để tìm nơi nương tựa. Ba biết điều đó nhưng vẫn chấp nhận.

Năm bảy mươi lăm cha tôi bất ngờ trở về, còn Ba thì lại khăn gói vào “trại cải tạo”. Mẹ vui mừng vì sự trở về của cha bao nhiêu thì tôi lại đau lòng vì sự tù tội của Ba bấy nhiêu. Tôi không hiểu được tình cảm của mẹ. Tại sao với một người chồng hết lòng thương yêu mẹ mà trái tim bà vẫn dửng dưng? Tại sao chỉ một năm ngắn ngủi sống với cha mà tình yêu bà vẫn bền vững suốt cả chục năm hơn? Tại sao mẹ có thể chấp nhận việc cha đã có vợ khác và người vợ “đồng chí” của cha đã nghiễm nhiên trở thành vợ chính thức, còn mẹ, chỉ là một người vợ danh không chính, ngôn không thuận, để mỗi lần đến thăm, cha phải nhìn trước, ngó sau như một kẻ đang phạm tội ngoại tình. Chưa kể có lần vợ của cha còn đến nhà, mắng chửi mẹ là “dâm phụ” và cũng không cần biết bà nội tôi là ai, bà chống nạnh xỉa xói:
- Cả nhà chúng mày phải tránh xa chồng bà, không thì bà cho chết cả lũ về cái tội cấu kết với cái thằng lính ngụy đang ở tù rục xương.

Cha tôi nắm tay kéo bà vợ đi xềnh xệch trước những cặp mắt tò mò của hàng xóm. Mặt bà nội xanh như chàm, bàn tay cầm cây gậy run lên bần bật vì tức giận. Mẹ ngồi bệt xuống sàn nhà với những giọt nước mắt không ngừng tuôn chảy trên khuôn mặt lơ lơ, láo láo như người mất hồn. Tôi cũng không nhớ rõ cảm giác của mình lúc ấy ra sao nhưng hình như có một nỗi vui nào đó hiện đến rất nhanh khi tôi chợt nghĩ, đây cũng là một điều hay để giúp mẹ tôi sáng mắt ra mà nhận biết ai là người thật sự yêu thương mình. Nhưng không, mẹ tôi vẫn tối tăm quay cuồng trong mớ tình cảm hỗn độn đó dù bà nội khuyên mẹ hãy quên cha tôi đi để lo thăm nuôi Ba đang chịu tù tội, đói khát.

Phần tôi, tôi rất bất mãn trước thái độ của mẹ khi bà không có một chút quan tâm, lo lắng nào dù thật nhỏ cho cuộc sống của Ba trong cảnh khốn cùng. Mỗi lần theo cô Tư đi thăm Ba, tôi phải nói dối đủ điều về lý do tại sao mẹ vắng mặt. Dĩ nhiên, cô Tư cũng không muốn anh mình phải đau khổ - nếu biết được người vợ đầu ấp tay gối đã nhẫn tâm phủi tay, rũ bỏ tình nghĩa vợ chồng bao nhiêu năm - nên cô dặn dò tôi phải nói dối với Ba rằng mẹ đi buôn xa không về kịp, hoặc bà nội bệnh bất ngờ mẹ phải ở nhà chăm sóc.

Có lần, sau khi thăm Ba trở về, tôi hỏi mẹ bằng thái độ khó chịu:
- Ba ở tù bốn năm rồi mà sao mẹ không đi thăm Ba một lần?
Mẹ trả lời một cách thản nhiên:
- Vì mẹ không thể phản bội cha con!
Tôi tức giận:
- Mẹ không thể, nhưng mẹ đã phản bội cha rồi.
Mẹ cho rằng tôi bất hiếu vì không phân biệt ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Tôi cười chua xót:
- Con không cần biết ai là cha ruột, ai là cha nuôi. Con chỉ biết Ba là người đã cực khổ nuôi nấng con từ lúc còn bé. Con chỉ biết Ba là người đã bất kể hiểm nguy, giữa đêm khuya bế con đến Bệnh viện cứu cấp khi con đau nặng. Mẹ không nói cho con biết nhưng bà nội vẫn nhắc hoài chuyện ấy.

Mẹ quay đi sau khi ném cho tôi ánh mắt giận dữ. Tôi biết mẹ không thể bỏ cha ruột của tôi, dù ông đối xử với bà tình không trọn mà nghĩa cũng chẳng tròn, nhưng ít ra bà cũng không nên rũ sạch ơn nghĩa cưu mang của Ba hơn chục năm trời.
- Mẹ hãy dẹp tình cảm qua một bên để tỉnh táo suy nghĩ xem cha đối với mẹ như thế nào. Ông đi bao nhiêu năm trời không một tin tức. Chắc trong lòng ông không hề vấn vương, thương nhớ mẹ hay nghĩ đến đứa con chưa kịp chào đời. Bằng chứng là đứa con riêng của cha nhỏ hơn con một tuổi, có nghĩa là xa mẹ chưa đầy một năm cha đã có người đàn bà khác. Rồi khi trở về đây gặp lại mẹ, đáng lẽ cha phải giải thích cho bà vợ của cha hiểu ai là người đến trước, ai là người đến sau, chứ lẽ nào cha đứng đó để chứng kiến bà ta làm hùm làm hổ với mẹ, cứ y như mẹ cướp chồng của bà ta...
Nhìn bà nội ngồi ở góc bàn sụt sùi lau nước mắt, tôi cảm thấy ân hận nên quỳ xuống cạnh bà:
- Nội à! con không muốn nói những lời làm đau lòng nội. Nhưng thật tình con không thể nào chấp nhận thái độ bạc bẽo của mẹ con. Nội thử nghĩ, nếu như ngày xưa không có Ba thì cuộc sống của gia đình mình sẽ ra sao? Nội bệnh hoạn cũng một tay Ba lo thuốc men mà không hề phân biệt rằng, đây là mẹ chồng chứ đâu phải mẹ ruột của vợ tôi. Ba nuôi nấng con từ nhỏ đến lớn không rầy la một tiếng dù con có phạm lỗi lầm. Ba thương yêu con như một đứa con ruột thịt...
- Rồi sao nữa? Cái thằng Sĩ quan ngụy đó cũng giỏi thiệt... nó dụ dỗ được mày đứng về phe nó để chống lại cha mẹ.
Cha tôi bước vào nhà, quăng cặp táp lên chiếc phản gỗ, tay đập bàn rầm rầm:
- Anh đã nói với em rồi, con bé này đã bị thằng ngụy đó đầu độc mười mấy năm không thể nào tẩy não được mà.
Tôi lùi lại, đứng sau lưng bà nội. Dù trong lòng cũng có chút nao núng, nhưng khi nghe cha xúc phạm đến Ba, tôi tức giận đến độ không còn biết sợ là gì:
- Thưa cha, cha có biết cái “thằng ngụy” xấu xa đó đã dạy con điều gì không?
...
Tôi cười chua chát tiếp lời:
Ông ấy đã dạy con, dù đi đâu xa cũng phải nhớ ngày giỗ của cha mà về nhà đốt nén nhang cho bà nội và mẹ vui lòng. Hồi mẹ được tin cha chết, mẹ khóc lóc, đau khổ nhưng không dám lập bàn thờ, thì chính cái “thằng ngụy” mà cha luôn miệng chửi rủa đó đã mang ảnh ba ra tiệm hình để rọi lớn, rồi đem về trịnh trọng đặt lên đầu tủ với lư hương, với chân đèn để làm bàn thờ cho cha. Nếu đêm nào mẹ lỡ quên vì bận bịu thì cũng chính “thằng ngụy” đó dù đã lên giường cũng vội vàng leo xuống để đốt nhang cho cha. Chưa bao giờ con nghe “thằng ngụy” đó nói một lời thất lễ với cha, nhưng cha thì lúc nào cũng chửi bới người ta, trong khi đáng lẽ cha phải cám ơn người đã thay cha gánh vác việc gia đình. “Thằng ngụy’ đó đã cho con thấy hình ảnh một người chồng, người cha cao thượng, nhưng cha thì sao?... cha hãy suy nghĩ lại để từ nay đừng bao giờ xúc phạm đến Ba của con.
Hình như tình thương đối với Ba đã cho tôi thêm sức mạnh và sự bình tĩnh để dõng dạc nói lên suy nghĩ của mình không chút sợ hãi. Điều đó khiến mẹ tôi lo quắn quíu:
- Con này... ma nhập nó rồi hay sao mà ăn nói bậy bạ, hỗn láo!
Mặt cha tôi như xám lại, ánh mắt ông long lên sòng sọc, đôi môi mím chặt khiến khuôn mặt ông đanh lại, hung hãn không thua gì các diễn viên đang vào vai một nhân vật phản diện độc ác. Cha đưa chân đạp chiếc ghế văng vào bàn. Ông quay lại hét vào mặt mẹ tôi:
- Em dạy dỗ con cái như thế này đây hả? Nó nói chuyện với cha nó như một phường mất dạy. Anh nói rồi... ngày nào nó còn ở trong nhà này anh sẽ không bao giờ đặt chân đến đây nữa.
Tôi nghênh mặt khiêu khích:
- Cha không cần đuổi con cũng sẽ ra khỏi nhà ngay hôm nay. Con xin nói thật... con không muốn gặp mặt người cha vô trách nhiệm, bỏ vợ, bỏ con mấy mươi năm rồi bây giờ trở lại trách vợ mình không dạy dỗ con. Cha có biết trách nhiệm dạy dỗ con thuộc về ai không?
Cái tách trà bay về phía tôi, chạm vào thành ghế bà nội đang ngồi vỡ toang. Tôi không biết nếu cái tách trúng ngay đầu bà nội thì việc gì sẽ xảy ra? Có lẽ tôi lại hứng thêm một cái tội “Tại cái con mất dạy này mới ra cớ sự!”

***

Sau cuộc cãi vã đó tôi thu dọn quần áo ra đi. Bà nội chạy theo níu tay tôi mếu máo dặn dò:
- Con xuống nhà cô Tư ở, đừng đi đâu bậy bạ nghe con.
Tôi cười trong nước mắt:
- Con có tư cách đến nhà cô Tư sao bà nội? Cô Tư đâu phải ruột thịt gì của con!
Mẹ đứng ngang ngạch cửa mai mỉa:
- Biết vậy là khôn đó con. Cứ đến ở thử vài ngày để xem người ta đối xử ra sao cho biết thân.
Không hiểu sao câu nói nào của mẹ cũng châm chích, cay nghiệt. Không lẽ mẹ đã quên hết những ngày cô Tư chạy đôn chạy đáo đem hàng về cho mẹ bán kiếm lời. Chẳng những thế, cô còn nhường cả khách hàng của cô cho mẹ. Ngay từ lúc Ba đến với mẹ, đâu phải cô Tư không biết tôi là con riêng của mẹ, nhưng lúc nào cô cũng đối xử với tôi ngọt ngào, thân thương như đứa cháu ruột. Mẹ không nhớ hay cố tình chối bỏ? Tôi thất vọng não nề vì cách cư xử của mẹ nên cay đắng trả lời:
- Cô Tư đối xử với con ra sao thì cả chục năm nay con đã biết rồi không cần phải thử đâu mẹ. Con nghĩ người mà con cần thử là cha đó, cả mẹ bây giờ nữa... Mẹ à! mẹ thay đổi quá nhiều... đến độ con không còn nhận ra mẹ là người con vẫn hằng yêu quý. Trời cao, đất rộng không tha thứ cho mẹ cái tội bạc đãi Ba đâu.

Tôi quay lưng đi mà không chút luyến lưu, nuối tiếc. Tội nghiệp bà nội. Bà vừa khóc vừa gọi tên tôi rồi lúc thúc chạy theo, dúi vào tay tôi một nắm tiền:
- Cầm tiền theo mà tiêu xài đi con. Ở đâu nhớ cho nội biết để nội an tâm. Có đi thăm Ba thì lấy tiền này mua một chút đồ ăn đem theo, nói nội gửi cho Ba và xin lỗi Ba dùm... nội già yếu rồi không thăm Ba con được.
Tôi ôm chặt lấy bà nội, nước mắt chan hòa.

0ooo ||| ooo0

Sau sáu năm học tập Ba được thả về. Hộ khẩu của Ba là căn nhà ngày xưa gia đình tôi đã chung sống, nhưng nay mẹ không đồng ý cho Ba vào nhà. Bà nội khóc hết nước mắt cũng không lay chuyển được quyết định của mẹ - đúng hơn là mẹ đã làm theo lệnh của cha tôi. Ông Năm hàng xóm thương Ba sa cơ thất thế, giận mẹ tôi là “Phường vong ân bội nghĩa” - cụm từ này đã thay vào tên mẹ tôi mỗi khi ông nhắc đến - ông cho Ba cất cái chái nhỏ phía sân sau của ông, sát cạnh nhà mẹ trong thời gian chưa ổn định vì hàng ngày Ba phải ra Công an phường trình diện.

Ba hoàn toàn không nói một lời trách móc mẹ. Tất cả nỗi đau Ba giấu kín trong lòng. Có lần bà nội sang thăm Ba, bà ân cần nắm tay Ba nói trong nước mắt:
- Má xin lỗi con. Má không biết phải làm sao cho đúng!
Ba cười hiền từ:
- Cũng là số phận của con thôi. Má đừng buồn!
Phải hơn nửa năm sau cô Tư mới đút lót được Công an để chuyển hộ khẩu của Ba về nhà cô. Và tôi đã có những ngày tháng vui vẻ sống bên cạnh Ba và cô Tư. Một mái gia đình đâu phải thật sự là của tôi nhưng sao tình cảm tôi nhận về quá thiết tha, sâu đậm. Cha “bắn tiếng” hăm dọa sẽ từ bỏ, không nhận tôi là con nữa. Ba khuyên tôi nên trở về xin lỗi cha mẹ, tôi nhăn mặt trách Ba:
- Con đang ở thiên đàng sao Ba lại nỡ lòng đẩy con xuống hỏa ngục. Ba hết thương con rồi phải không? Ai muốn từ con thì cứ từ... con không sợ. Con chỉ sợ Ba từ con thôi.
Đôi mắt long lanh, đỏ hoe của Ba cho tôi biết rằng Ba đang rất hạnh phúc khi biết rằng, trong lòng tôi, Ba mới thật sự là người cha tôi yêu kính.
Ngày bà nội mất Ba không đến nhưng trong căn phòng hẹp của Ba, Ba đã lập một bàn thờ nhỏ và lặng lẽ quấn vành khăn tang. Nếu mẹ đã làm tôi thất vọng vì sự bạc tình, bạc nghĩa đối với Ba thì tình cảm của Ba và bà nội làm tôi cảm động rơi nước mắt. Ba nói “Ba mồ côi từ bé, bà nội lại đối xử với Ba rất tốt, nên Ba thương bà nội như chính mẹ của mình”.

***

Những năm gần đây Ba mang một chứng bệnh nan y. Có lẽ, Ba sợ khi mất đi tôi sẽ bơ vơ vì không có ai là người thân thích ruột rà nơi đất khách quê người nên cứ nhắc nhở tôi trở về Việt Nam thăm “gia đình” nhưng chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều đó. Sự oán giận và ray rứt trong lòng tôi vẫn chưa nguôi ngoai dù thỉnh thoảng tôi vẫn gửi tiền về cho mẹ theo lời khuyên nhủ, nhắc nhở của Ba. Tôi muốn được ở cạnh Ba cho đến ngày cuối cùng để đền bù món nợ ân tình quá lớn mà mẹ tôi đã nợ của Ba.

Ngân Bình

(hồi ký) VỄ VỤ "KHÔNG-TẶC HỤT" NGÀY 20-4-1974 TẠI PHÚ-BÀI, HUẾ (LÊ XUÂN NHUẬN)

 

(hồi ký) VỄ VỤ "KHÔNG-TẶC HỤT" NGÀY 20-4-1974 TẠI PHÚ-BÀI, HUẾ

 

TRẢ LẠI SỰ THẬT CHO VỤ KHÔNG TẶC VÀO CHIỀU THỨ BẢY, NGÀY 20 THÁNG 4 NĂM 1974 TẠI PHI TRƯỜNG PHÚ BÀI, HUẾ,

 


49 NĂM ...THÁNG 4 LẠI VỀ

Không Tặc Tháng Tư Năm 1974 Tại Huế – Nguyễn Phúc Liên Thành

 

Lê Xuân Nhuận

Xin tạm trả lời 2 điểm:

 

1-   Hồi đó, Khắp cả Việt-Nam Cộng-Hòa, khó mà tìm ra được một lá cờ Cộng-Sản Bắc-Việt (cờ đỏ sao vàng, của Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hòa) vì CSBV triệt-để thực-hiện chiêu-bài “các lực-lượng dân-tộc ở Miền Nam tự-động đứng lên chống lại chế-độ VNCH, chứ CSBV không có can-thiệp vào MNVN”; do đó, Liên Thành và CSQG Thừa-Thiên/Huế không tìm ra được một lá cờ CSBV nào. Khi phi-cơ chạy chậm vào trụ-sở phi-trường Phú Bài, tên không-tặc thấy rõ không có cờ của CSBV, tức là không phải phi-trường Đồng-Hới thuộc Cộng-Sản Miền Bắc, nên y cho nổ quả lựu-đạn.

 

2-    Chiếc phi-cơ Air Vietnam trong vụ này, thuộc loại Douglas C-54A (XV-NUM), 4 chong-chóng, tức DC-4, có bề cao 27ft 6in (8.38 mét), tính riêng từ dưới đất lên thềm cửa vào phi-cơ là rất cao, phi-cơ đậu lại nhưng không có cầu-thang lên/xuống, khó có thể dễ-dàng nhảy ngay vào phi-cơ như đóng phim.                          

 




Cước-Chú: Chiều tối cùng ngày, Air Vietnam đưa ra Phú Bài một chiếc phi-cơ khác, với 2 hành-khách, là Trung-Tá Trịnh Văn Ca (Trưởng E-2, tức Giám-Đốc Phản Tình-Báo và Nội-Chính, trực-thuộc Đại-Tá Huỳnh Thới Tây, Trưởng Ngành (CS) Đặc-Biệt Trung-Ương); cùng với Trung-Tá Trần Phước Thành (nguyên là Giám-Đốc Nha CSQG Trung-Nguyên Trung-Phần, nay là Chánh-Sở An-Ninh của Nha Hàng-Không Dân-Sự Việt-Nam.

 

3-  Tôi trình-bày sơ-lược mọi việc đã làm, rồi cùng Thiếu-Tá Ngô Phi Đạm (Trưởng F, Chánh-Sở Công-Tác thuộc E-6 của tôi) lên trực-thăng của Người Bạn Đồng-Minh bay trở về Đà-Nẵng vì trời đã tối.

 

4-  Mấy hôm sau, nhân về công-tác tại Ngành Đặc-Cảnh Trung-Ương, tôi gặp và nói chuyện riêng với Trung-Tá Trịnh Văn Ca. Ông cho tôi biết là Thiếu-Tá Trương Công Ân (Trưởng F, Chánh-Sở Đặc-Cảnh Thừa-Thiên/Huế, có thú-nhận riêng với ông là trong vụ “không-tặc hụt” vừa rồi, Cảnh-Sát ngoài đó đã không tìm ra được một lá cờ Cộng-Sản Bắc-Việt nào để dùng trong kế-hoạch ngụy-trang Phú-Bài thành Đồng-Hới.

 

 

5-  Trở về nhiệm-sở, tôi đã ra Huế gặp riêng Thiếu-Tá Ân, và Ân cũng đã thú-nhận với tôi như thế.

 

6-  Riêng về sự khác nhau giữa phi-trường Gia-Lâm và phi-trường Đồng-Hới thì, độ một tháng sau, Trung-Tá Trần Phước Thành, trên một chuyến đi ngang qua nhà tôi, đã ghé vào thăm tôi và tiết-lộ rằng Phi-Công-Trưởng Dương Văn Em tự-ý quyết-định, nếu phải bay xa, thì chọn phi-trường Đồng-Hới cho gần và nhỏ hơn để dễ lẫn-lộn vì Gia-Lâm lớn quá. Cái tên Đồng-Hới do đó đã đi vào hồ-sơ của giới phi-hành (dù lầm tháng 4 thành tháng 2: 20 February 1974): https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_accidents_and_incidents_involving_the_Douglas_DC-4 còn Gia-Lâm thì do nữ tiếp-viên tên Hồng, người từ đầu chí cuối đã đi sát và gợi chuyện với tên không-tặc, đã trả lời các câu phỏng-vấn của tôi.

 

                                                            LÊ XUÂN NHUẬN

 

Vị nào muốn biết thêm chi-tiết, xin mời đọc cuốn hồi-kí “Biến-Loạn Miền Trung”

 

Monday, April 15, 2024

THƯƠNG (HÀN THIÊN LƯƠNG)

 




TƯỚNG TRẦN VĂN HAI/ CỰU TỈNH TRƯỞNG TỈNH PHÚ YÊN.



 TƯỚNG TRẦN VĂN HAI

Trần Văn Hai (1925-1975), nguyên là một tướng lĩnh bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ trường Võ bị Quốc gia Việt Nam. Trong suốt thời gian tại ngũ, ông đã phục vụ nhiều lĩnh vực như: Tỉnh trưởng, Chỉ huy trưởng Binh chủng, đứng đầu ngành Cảnh sát Quốc gia và Tư lệnh Sư đoàn bộ binh. Ông là một trong năm tướng lĩnh đã tuẫn tiết trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.

Ông sinh vào tháng Giêng năm 1925 tại Gò Công. Tốt nghiệp Trung học phổ thông chương trình Pháp tại Mỹ Tho với văn bằng Tú tài 1. Sau đó, ông được tuyển dụng làm Công chức cho Chính quyền Bảo hộ tại Mỹ Tho.

Năm 1952: Thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, mang số quân: 45/102.692. Theo học khoá 7 Ngô Quyền tại Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (khai giảng: 1/5/1952, mãn khoá: 25/2/1953), tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông được điều đi phục vụ Tiểu đoàn 4 Việt Nam do Thiếu tá Đặng Văn Sơn làm Tiểu đoàn trưởng

(Tiểu đoàn 4 Việt Nam thành lập ngày 15/10/1952 tại Hưng Yên do Đại úy Trần Văn Cường làm Tiểu đoàn trưởng đầu tiên).

Năm 1954: Sau hiệp định Genėve, ông được thăng cấp Trung úy phục vụ tại Phòng 2 thuộc Đệ tứ Quân khu Cao nguyên do Đại úy Đặng Hữu Hồng làm trưởng phòng.

Năm 1955: Khi nền Đệ nhất Cộng hoà ra đời, ông được cử làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 262 đóng tại Ninh Hoà, Khánh Hoà. Cuối năm này được thăng cấp Đại úy giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 81 Địa phương đồn trú tại Phan Thiết.

Năm 1961: Đầu tháng 8, ông là một trong những người thành lập Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ do Thiếu tá Vĩnh Biểu làm Chỉ huy trưởng đầu tiên.

Năm 1962: Ông nhận chức Trưởng khoa Hành quân kiêm Huấn luyện viên lớp “Biệt động Rừng núi sình lầy”. Qua đầu năm 1963, ông được lên chức Trưởng khối Huấn luyện Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ. Tháng 8 cùng năm, ông được lên cấp Thiếu tá.

Năm 1965: Ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng tỉnh Phú Yên thay thế Trung tá Phạm Anh. Ngày 1/11 cùng năm, ông được thăng cấp Trung tá nhiệm chức.

Qua cuối năm 1967, ông được thăng cấp Đại tá nhiệm chức.

Năm 1968: Hạ tuần tháng 3, ông được lệnh bàn giao chức Tỉnh trưởng Tỉnh Phú Yên lại cho Trung tá Nguyễn Văn Bá.

Qua đầu tháng 4, ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy biệt động quân Trung ương. Đầu tháng 6, ông bàn giao Bộ chỉ huy Biệt động quân lại cho Trung tá Trần Công Liễu.

Ngay sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng giám đốc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia thay thế Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan được đề cử giữ chức vụ Thanh tra Bộ Quốc phòng.

Tháng 7 năm 1970, ông được vinh thăng Chuẩn tướng nhiệm chức, sau đó bàn giao chức Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia lại cho Thiếu tướng Trần Thanh Phong, để đi nhận chức Tư lệnh Biệt khu 44 (gồm 4 tỉnh: Kiến Tường, Kiến Phong, Châu Đốc và An Giang).

Năm 1972: Đầu năm, ông được cử làm Tư lệnh phó Quân đoàn II đặc trách Biên phòng. Tháng 7 cùng năm ông được chuyển đi làm Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Lam Sơn kiêm Chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ thay thế Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh được thuyên chuyển làm Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế.

Năm 1974: Cuối tháng 10, ông được lệnh bàn giao Quân trường Lam Sơn & Huấn khu Dục Mỹ lại cho Đại tá Nguyễn Hữu Toán. Đầu tháng 11, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh thay thế Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam lên làm Tư lệnh Quân đoàn IV & Quân khu 4.

rước sự kiện 30 tháng 4, 1975 khoảng hơn một tuần, đích thân Tổng thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn tướng Hai di tản nhưng ông từ chối.[1] Chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi cho binh sĩ rời quân ngũ theo lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh, nửa đêm về sáng ngày 1/5/1975 ông đã dùng thuốc Optalidon (uống nguyên ống 20 viên) tự vẫn trong phòng làm việc tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Thi thể ông được Thân mẫu và bào đệ đem về mai táng tại Nghĩa trang Chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn ngày 2/5/1975.

Tướng Trần Văn Hai được đánh giá là một tướng thanh liêm, chăm lo tốt đời sống binh sĩ thuộc quyền.[1]

--------------------------------------------------------------------------

Chuẩn tướng Trần Văn Hai và Sư đoàn 7 Bộ binh:

Đầu tháng 11/1974, trong kế hoạch tái phối nhiệm các tư lệnh đại đơn vị, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc lệnh thay thế, bổ nhiệm một số tư lệnh Quân đoàn và Sư đoàn. Theo nội dung sắc lệnh này, chuẩn tướng Trần Văn Hai, nguyên chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ kiêm chỉ huy trưởng trung tâm huấn luyện Lam Sơn, cựu chỉ huy trưởng Biệt động quân, cựu Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, cựu tư lệnh Biệt khu 44, được bổ nhiệm giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh thay thế thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam được thăng chức lên làm tư lệnh Quân đoàn 4 & Quân khu 4.

Đây là lần thứ hai, tướng Trần Văn Hai trở lại chiến trường miền Tây trong cương vị một tư lệnh chiến trường. Lần đầu tiên vào tháng 7/1970, sau khi được thăng chuẩn tướng, ông đã rời chức vụ Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc Gia để về miền Tây đảm nhận chức vụ Tư lệnh Biệt khu 44 (phụ trách các tỉnh biên giới Việt-Căm Bốt từ Kiến Tường đến Châu Đốc). Vào những năm cuối của cuộc chiến, bộ Tư lệnh chính của Sư đoàn 7 Bộ binh đặt tại căn cứ Đồng Tâm, tỉnh Định Tường. Khu vực chiến thuật của Sư đoàn 7 Bộ binh gồm các tỉnh Tiền Giang. Tướng Hai là vị tư lệnh cuối cùng của Sư đoàn 7 Bộ binh.

Về ngày cuối cùng của ông, có hai tài liệu ghi khác nhau. Theo nội dung bài viết của cựu sĩ quan Biệt động quân Trần Thanh Vân đăng trong KBC số 13, những giờ cuối cùng của tướng Trần Văn Hai được tóm lược như sau:

Trưa ngày 30 tháng 4/1975, tại Bộ tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh ở Mỹ Tho, chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh “đón” một sư đoàn trưởng của Cộng quân để “bàn giao”. Tướng Hai mời sư đoàn trưởng Cộng quân vào văn phòng rồi bất thần rút súng bắn vào viên chỉ huy sư đoàn Cộng quân. Viên sư đoàn trưởng Cộng quân bị thương và vài cán binh CS tùy tùng đã thoát chạy ra ngoài. Số quân nhân cố thủ bộ Tư lệnh Sư đoàn 7 và đơn vị Cộng quân đến nhận “bàn giao” gờm súng chuẩn bị giao chiến. Trong khi đó, tướng Hai ung dung bước vào bên trong văn phòng tư lệnh và đã dùng súng tự sát…

Tài liệu thứ hai ghi lại theo lời kể của trung úy Huỳnh Văn Hòa, anh là sĩ quan tùy viên của tướng Trần Văn Hai. Bài viết được dịch sang Anh ngữ đăng trong đặc san Biệt Động Quân ấn hành 1998, chi tiết về cái chết của tướng Hai được tóm lược như sau (dựa theo bản dịch sang tiếng Anh):

Trưa ngày 30 tháng 4/1975, sau khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tướng Trần Văn Hai đã tập họp các sĩ quan tại Hội quán Sĩ quan Sư đoàn. Tại cuộc gặp gỡ lần cuối cùng này, tướng Hai đã ngỏ lời cám ơn tất cả các sĩ quan đã cộng tác với ông trong thời gian qua, và ông gửi lời từ biệt đến các chiến hữu của mình. Cuối cùng, ông mong mỏi anh em nhanh chóng trở về nhà, lo cho gia đình và tránh đối mặt với phía “bên kia”.

3 giờ chiều, tướng Hai gọi vị trung úy tùy viên vào văn phòng tư lệnh. Khi người tùy viên bước vào, anh cảm nhận có một cái gì khác thường ở vị tư lệnh: ông không ngẩng đầu lên nhìn tùy viên của mình đang đứng trước mặt. Ông vẫn ngồi yên, suy nghĩ một điều gì đó. Một lát sau, ông ra dấu cho người tùy viên ngồi xuống ghế, và chậm rãi nói:

– Tôi cám ơn anh đã ở cạnh tôi vào giờ cuối cùng này…

Rồi tướng Hai hỏi người tùy viên về tình hình gia đình. Cuối cùng, ông lấy từ ngăn bàn một gói bọc giấy báo cũ và nói:

– Sáng sớm mai, anh có thể trở về với gia đình. Anh vui lòng chuyển gói này cho mẹ tôi và nói với bà là đây là quà của tôi gửi. Anh cũng trấn an bà là đừng lo lắng cho tôi. Bây giờ thì anh có thể về phòng để thu xếp đồ đạc. Từ đây đến tối, khi nào cần tôi sẽ gọi anh.

Đứng nghiêm chào vị tư lệnh, người tùy viên trở về phòng riêng của mình. Đợi đến hơn 6 giờ chiều, anh vẫn không nghe điện thoại reo. Anh linh cảm một điều gì đó đã xảy ra, không thể bình tĩnh được nữa, anh quyết định quay trở lại văn phòng tư lệnh. Khi đến gần văn phòng tướng Hai, trái tim anh đập mạnh, đèn vẫn sáng, nhưng không khí lạnh lẽo bao trùm. Anh đứng trước cửa và lắng nghe… bên trong im vắng. Cố can đảm, anh vặn cửa, mở nhẹ và bước vào phòng: Một cảnh tượng bên trong đập vào mắt anh: tướng Hai vẫn còn ngồi trên ghế sau chiếc bàn, đầu ông ngã lên thành ghế và gần như bất động, một cái ly rỗng còn ở trên bàn. Liền khi đó, anh gọi cho tiểu đoàn Quân Y và bệnh xá Sư đoàn. Lúc bấy giờ chỉ còn một bác sĩ thiếu tá quân y ở đó. Anh báo cho vị quân y sĩ tình trạng của tướng Hai, vài phút sau, vị bác sĩ đến trên một chiếc xe cấp cứu và đưa tướng Hai về bệnh xá cấp cứu. Bác sĩ đã cố gắng cứu sống vị tư lệnh Sư đoàn, nhưng thuốc độc đã ngấm vào máu của vị tướng tuẩn tiết. Tướng Hai vĩnh viễn ra đi vào tối 30 ngày 30/4/1975 ở tuổi 49 (ông sinh năm 1926, tuổi Bính Dần).

Đứng nghiêm chào vĩnh biệt vị chủ tướng, người tùy viên vội vã đón xe về Sài Gòn để báo tin cho gia đình tướng Hai. Gói quà mà tướng Hai gửi cho người mẹ vỏn vẹn có 70 ngàn đồng, (chưa đến 100 đô vào thời giá lúc đó)…